Đúng
100 năm trước đó, dòng họ Trần Trinh cũng khởi đầu nghèo khó, ông Trần
Trinh Trạch - ba của Trần Trinh Huy - là một cậu bé chăn trâu...
Bàn thờ vợ chồng Hội đồng Trạch với 2 bức tượng đồng
vẫn còn nguyên trong khách sạn Công tử Bạc Liêu.
Nhờ
đâu mà từ một cậu bé chăn trâu để kiếm chén cơm thừa của chủ, Trần
Trinh Trạch lại trở thành đại điền chủ giàu nhất Nam Kỳ, để rồi đứa con
Trần Trinh Huy có sẵn một núi tiền để ăn chơi vô độ, nổi danh là Công tử
Bạc Liêu?
“Đái ra quần” vì phải đi học
Trong
lịch sử khai khẩn vùng đất Nam Bộ, những vùng gần sông biển như Gò
Công, Mỹ Tho, Rạch Giá, Hà Tiên được khai khẩn từ rất sớm, trước cả thời
nhà Nguyễn. Vùng đất Bạc Liêu mới được khai khẩn từ sau khi thực dân
Pháp xâm chiếm nước ta. Cha mẹ của ông Trần Trinh Trạch có mặt trong
đoàn người từ miệt Gò Công tới khai khẩn vùng đất Bạc Liêu, được chính
quyền thực dân đưa đến vùng đất Cái Dầy lập nghiệp bên một dòng kinh vừa
mới được đào đắp.
Do
đông con, hầu hết còn nhỏ, nên ba má ông Trạch không khai khẩn được
nhiều ruộng. Rồi dịch bệnh xuất hiện trong vùng, mấy đứa con liên tục bị
bệnh hoạn, họ phải đem cầm cố hết ruộng đất để cứu chữa các con, nên
trở thành bần cố nông, không mảnh đất cắm dùi. Vừa lớn lên cậu bé Trạch
phải đi ở đợ, chăn trâu ở nhà ông bá hộ trong vùng, hằng ngày được lưng
bụng bằng vài chén cơm thừa, ấm lòng bằng manh áo rách của con chủ thải
ra.
Sau
2 năm chăn trâu, có một việc tình cờ làm thay đổi số phận của cậu bé
Trạch. Đó là vào năm 1881, chính quyền thực dân buộc các gia đình bá hộ ở
Nam Kỳ phải cho con đi học trường Pháp trong kế hoạch “khai hóa” vùng
đất chúng vừa chiếm đóng. Năm ấy cậu bé Trạch lên 8 tuổi, một buổi sáng,
khi cậu bé vừa mở cửa chuồng trâu, tháo dây vàm, định dắt trâu ra đồng
như mọi khi thì ông bá hộ ngăn lại nói: “Thôi khỏi, mày buộc trâu vô
chuồng lại đi, rồi lên nhà trên ông dạy việc”.
Cậu
bé Trạch rụt rè làm theo, nghĩ rằng mình đã làm điều gì sai quấy nên
chủ mới không cho giữ trâu, kêu lên la rầy hay bị đuổi cũng nên. Cậu bé
rón rén bước lên nhà trên, nơi mà suốt 2 năm làm mướn ở đây cậu chưa một
lần dám đặt chân lên. Ông bá hộ thấy cậu bé đến thì chìa ngay bộ quần
áo mới và nói: “Đây là bộ quần áo may cho mày, đi thay đồ đi!”. Thấy bộ
đồ trắng tinh như đồ của các con ông bá hộ mặc hằng ngày, cậu bé Trạch
ngạc nhiên đứng chết trân. Ông bá hộ nói: “Từ nay mày khỏi chăn trâu, mà
đi học thay cậu Hai!”.
Vợ chồng Công tử Bạc Liêu.
Đến
đây, cậu bé Trạch không chỉ đứng chết trân, mà đái ra quần lúc nào
không hay. Từ nhỏ tới lớn cậu chỉ biết ở đợ, chăn trâu, một chữ bẻ đôi
cũng không đọc được. Còn cậu Hai con ông bá hộ trác tuổi với bé Trạch
được học chữ thánh hiền, hằng ngày có thầy đồ tới dạy tận nhà. Bé Trạch
quỳ xuống lạy ông bá hộ, vừa khóc: “Ông thương con cho con coi trâu, con
không học được đâu ông ơi!”. Thời ấy nhiều người giàu có ở Nam Kỳ tuy
buộc phải hợp tác với chính quyền thực dân, nhưng rất ghét Pháp. Họ
không muốn cho con đi học trường Pháp, mà ở nhà mời thầy đồ tới dạy học
chữ Nho. Để đối phó với chính quyền, ông bá hộ ở Cái Dầy mới nghĩ ra
chuyện bắt đứa nhỏ ở đợ, chăn trâu đi học thế. Dù sợ đến đái ra quần,
nhưng cậu bé Trạch rồi cũng phải đến trường theo ý chủ.
Ngày
hôm sau, cậu bé Trạch được gia nhân chở bằng ghe đi đến trường huyện
cách đó mấy chục cây số để đi học, sau khi bị ông bá hộ dọa: “Mày học mà
không xong, tao đuổi việc, chết đói đó con”. Cứ tưởng đi học thế một
hai ngày, chẳng dè ông bá hộ bắt cậu bé Trạch học hoài, ở nội trú luôn
ngoài trường huyện. Sau mấy ngày vừa học vừa run, cậu bé Trạch đã sớm
thể hiện mình là đứa bé “sáng dạ”, học giỏi, được các thầy khen ngợi,
ông bá hộ cũng lấy làm hài lòng. Cậu bé chăn trâu được học tới hết tiểu
học, học cả tiếng Tây. Sự đi học nhờ lý do có một không hai ấy như là sự
sắp đặt của số phận, để từ đó mà cậu bé chăn trâu vươn lên trở thành
đại điền chủ giàu nhất xứ Nam Kỳ.
Thầy ký Trạch mê làm giàu
Học
hết tiểu học, bằng cả chữ quốc ngữ và chữ Tây, Trần Trinh Trạch trở
thành một trong số ít người giỏi cả chữ quốc ngữ và chữ Tây trong làng.
Nhờ vậy mà ông được gọi ra làm thư ký làng. Từ công việc “biện làng”,
thầy ký Trạch được rút lên làm thư ký trên quận, rồi rút lên tỉnh làm ở
bộ phận thu thuế điền đất. Đi làm thầy ký, ông Trạch vẫn theo nếp nhà
tóc để dài và buộc thành búi, nên mọi người đặt cho ông cái tên là “thầy
ký Tó”. Thời ấy năm nào các chủ điền cũng phải lên tỉnh kê khai và đóng
thuế ruộng đất, thầy ký Trạch là người luôn tận tình hướng dẫn họ làm
việc ấy.
Ngôi nhà của Hội đồng Trạch,
nay là khách sạn Công tử Bạc Liêu.
Lúc
ấy ở Bạc Liêu có ông bá hộ tên Phan Văn Bì có hàng ngàn hécta đất, ông
mỗi năm đôi lượt lên tỉnh sao lục sổ bộ đất đai và đóng thuế điền địa.
Thấy thầy ký Tó làm việc có trách nhiệm giúp đỡ mình và mọi người nhiệt
tình, ông bá hộ Bì có cảm tình. Một lần, bá hộ Bì mời thầy ký Trạch về
nhà chơi và dùng cơm trưa. Trong bữa cơm, ông bá hộ cố ý để cho thầy ký
Trạch tiếp xúc với cô con gái thứ tư của mình tên là Phan Thị Muồi.
Chuyện
gì đến rồi cũng đến, thầy ký độc thân và cô con gái rượu của ông bá hộ
giàu nhất làng đã phải lòng nhau. Một đám cưới linh đình kéo dài 3 ngày
giữa thầy ký Tó và cô con gái của bá hộ Bì.
Đám
cưới xong, ông bá hộ Bì kêu thầy ký Trạch nghỉ làm việc vì lương bổng
chẳng bao nhiêu, lại mang tiếng đi làm cho Tây. Ông bá hộ cho vợ chồng
thầy ký Trạch mấy sở đất và cho vốn canh tác. Chỉ sau mấy mùa lúa trúng,
vợ chồng ông Trạch phất lên thấy rõ, cất nhà đàng hoàng, mua sắm thêm
ruộng. Không biết nhờ đâu mà một người xuất thân “bần cố nông” như Trần
Trinh Trạch lại có tài năng thiên bẩm và sự đam mê làm giàu hơn người.
Có chút chữ nghĩa, từng làm việc nhà nước, nay lại có chút vốn trong
tay, thầy ký Trạch đăng ký đấu thầu và đã trúng thầu quản lý sở cầm đồ
(Mont de Piété) của nhà nước.
Thời
ấy chính quyền thuộc địa không cho tư nhân mở tiệm cầm đồ, mà nhà nước
giữ độc quyền, nhờ vậy mà một mình thầy ký Trạch nắm độc quyền hoạt động
cầm đồ ở tỉnh Bạc Liêu. Cũng nhờ kinh nghiệm và quen biết từ những năm
đi làm thầy ký cho Tây, ông Trạch lại trúng thầu quản lý hãng rượu Bình
Tây, độc quyền phân phối rượu ở Bạc Liêu. Tất cả những thứ đó đã làm cho
vợ chồng ông Trạch giàu có, vượt ra ngoài phạm vi của một làng, một
huyện. Nhưng chính sáng kiến của ông Trạch trong việc vay tiền Chà
Sết-ty trên Sài Gòn về cho dân chúng ở Bạc Liêu vay lại, mới làm cho sự
giàu có của ông Trạch bắt đầu được cả tỉnh Bạc Liêu biết đến. Ông vay
tiền của nhà nước ở Sài Gòn với lãi suất thấp, đem về Bạc Liêu cho tá
điền vay lại “ba phân lời” lấy chênh lệch.
Trong
khi vợ chồng ông Trạch ngày càng ăn nên làm ra, thì các đứa con còn lại
của ông bá hộ Bì (anh chị em vợ của thầy ký Trạch) lại mê cờ bạc, rượu
chè, lâm vào nợ nần, phải bán dần đất để ăn chơi tiếp. Họ không bán cho
người ngoài, mỗi khi có chuyện cần tiền là họ chạy tới vợ chồng thầy ký
Trạch. Cứ vậy, hàng ngàn hécta ruộng ông bá hộ Bì chia cho cả chục đứa
con lần lượt vào tay của vợ chồng đứa con thứ tư. Ông bá hộ Bì tuy có
buồn khi các con bán hết đất đai, nhưng cũng tự an ủi vì đất không lọt
ra người ngoài, mà vào tay vợ chồng cô Muồi con ông.
Thâu tóm hàng trăm ngàn hécta đất
Độc
quyền cầm đồ, độc quyền phân phối rượu, độc quyền cho vay..., gia đình
Trần Trinh Trạch phất lên như diều gặp gió. Nhưng chỉ đến khi ông Trạch
trúng thầu giành quyền cung cấp muối cho cả Nam Kỳ thì sự giàu lên của
ông mới nhanh như phi mã. Có tiền, ông thâu tóm thêm đất đai trong vùng,
bằng cả mua bán sòng phẳng và ép buộc những người yếu thế. Cứ thế, đất
đai của gia đình Trần Trinh Trạch cứ nới rộng mãi.
Vào
thập niên 1930 -1940, ông Trần Trinh Trạch đã sở hữu tổng cộng gần
200.000 hécta ruộng trồng lúa và làm muối ở Bạc Liêu và vùng lân cận.
Thời ấy, nếu có ai đề nghị ông Trạch đem cơ ngơi của ông để đổi lấy vùng
đất mà ngày nay là nước Singapore giàu có, chắc chắn ông sẽ lắc đầu từ
chối. Diện tích đất mà ông Trạch sở hữu vào lúc cực thịnh rộng gấp 3 lần
nước Singapore, đất đai ở Bạc Liêu vào thời đó cũng tốt hơn nhiều so
với vùng đất ven biển của nước Singapore.
Có
tiền, có ruộng đất cò bay thẳng cánh, ông Trần Trinh Trạch cho xây ngôi
nhà đẹp nhất miền Tây lúc đó (giờ là khách sạn Công tử Bạc Liêu, thuộc
Cty Du lịch Bạc Liêu). Ngôi nhà do kỹ sư người Pháp thiết kế, có hai
tầng, hai đại sảnh. Toàn bộ vật liệu xây dựng ngôi nhà đều được chở từ
Pháp sang, các đồ trang trí bên trong ngôi nhà được nhập cảng từ Ý và
Hoa Kỳ. Toàn bộ các đồ sứ, đồ gỗ lại được đưa từ Trung Hoa sang. Từ đó
đến nay, gần một thế kỷ qua, căn nhà gần như vẫn giữ được những nét cơ
bản của nó.
Năm
2003, Cty Du lịch Bạc Liêu đã đầu tư tu sửa căn nhà và đưa vào kinh
doanh văn hóa, du lịch, làm khách sạn “Công Tử Bạc Liêu”. Căn phòng của
Công tử Bạc Liêu ở ngày trước (phòng 101) muốn thuê phải đặt trước từ
7-10 ngày, vì phòng này lúc nào cũng có khách, phần đông là Việt kiều.
Tuy nhiên do qua nhiều giai đoạn lịch sử mà vật dụng trong gia đình đã
thất lạc rất nhiều, nhưng với những gì còn sót lại và được bảo quản như
hiện nay cũng đủ nói lên được sự giàu có của gia đình ông Hội đồng Trạch
lúc bấy giờ.
Hiện
nay, cơ quan có trách nhiệm vẫn còn để một gian thờ vợ chồng ông Trần
Trinh Trạch trong khách sạn Công tử Bạc Liêu như là cách người đời sau
ghi ơn những người có công xây dựng nên tòa nhà đồ sộ và tuyệt đẹp này.
Đó cũng là cách để ngành du lịch Bạc Liêu thu hút du khách. Trên bàn thờ
vẫn còn 2 pho tượng đồng bán thân của ông Trạch và vợ, do một nhà điêu
khắc từ Thụy Sĩ tên là Bernard chế tác vào năm 1933 vào dịp mừng “đáo
tế” ông Hội đồng Trạch. Một tháng trước ngày mừng thọ này, cậu Ba Huy
mời hẳn một điêu khắc gia lừng danh bên Thụy Sĩ sang Bạc Liêu để thực
hiện 2 bức tượng bán thân kích thước cỡ người thật cho ông bà Hội đồng
Trạch. Điêu khắc gia Bernard ở lại Bạc Liêu đúng 1 tuần lễ, làm việc với
mỗi “người mẫu” 3 ngày để đo ni tấc, phác họa thần sắc...
Xong,
ông mang tất cả về Thụy Sĩ để mấy tháng sau trở lại Bạc Liêu với 2
chiếc thùng gỗ được bảo quản cẩn mật. Cậu Ba Huy đã làm một nghi thức
đón nhận 2 bức tượng đồng thật hoành tráng, giống như nghi thức dành cho
các danh nhân, nguyên thủ quốc gia, với hàng trăm khách mời là những
quan chức trong vùng, những hào chủ có tiếng đến dự tiệc, tất nhiên là
có cả cánh nhà báo. Sau diễn văn khai mạc do chính cậu Ba Huy đọc nói về
công ơn cha mẹ, ông mời lần lượt ông rồi bà Hội đồng Trạch lên kéo tấm
vải điều đỏ thắm phủ bức tượng trong tiếng vỗ tay vang dội của quan
khách.
Chiến
tranh thế giới lần thứ nhất bùng nổ bên trời Âu, tại An Nam thuộc địa,
chính quyền thực dân Pháp giương lên khẩu hiệu “Rồng Nam phun bạc diệt
Đức tặc” để kêu gọi giới điền chủ ủng hộ tiền bạc cho “mẫu quốc” trong
cuộc chiến tranh Đức - Pháp. Ông Hội đồng Trạch vốn thừa tiền của đã
“mua” chút công danh cho gia tộc bằng cách ủng hộ cho chính quyền Pháp
một số tiền khá lớn. Số tiền ấy tương đương với khoảng 10 ngàn lượng
vàng lúc bấy giờ (gần 400kg vàng). Chính quyền Pháp sau đó đã “ghi công”
ông Trần Trinh Trạch bằng cách “ân thưởng Ngũ đẳng Bội tinh” (Légion
d’honneur). Chính quyền thực dân cũng thu xếp cho ông Trạch đắc cử vào
Hội đồng Tư vấn Mật viện, nên ông mới có danh xưng “Hội đồng Trạch”.
Suốt
cuộc đời ông Trần Trinh Trạch đã dùng bao thủ đoạn để làm giàu, để thu
gom hàng trăm ngàn hécta đất đai ở xứ Bạc Liêu và vùng lân cận. Lúc tuổi
đã già, ông Trạch như linh cảm hậu vận không mấy sáng sủa của dòng họ
Trần Trinh, nên ông quay sang làm từ thiện để “tích đức” lại cho cháu
con. Vào các dịp mừng thọ 50 tuổi (1923), 60 tuổi (1933) và 70 tuổi
(1943), ông Trạch đều mở hầu bao ra để phân phát tiền của, lúa gạo cho
người nghèo. Ông cũng cho xé hết giấy nợ của các tá điền, vì vậy cứ đến
dịp mừng thọ của Hội đồng Trạch là cả vùng Bạc Liêu mừng như trẩy hội.
Ông
Trạch cũng ủng hộ những khoản tiền lớn để làm từ thiện trên phạm vi cả
nước. Một nhà nghiên cứu người Pháp tên là Pierre Procheux đã viết về
ông trên một tờ báo Pháp như sau: “Phần lớn các điền chủ lớn ở Nam Kỳ có
hành vi giống như các nhà phú thương và ngân hàng Châu Âu thời Trung cổ
hay là các đại gia Mỹ thuộc nhóm Big Business tự thấy có nghĩa vụ trích
một phần tài sản giúp những kẻ thiếu may mắn đồng thời tham gia công
cuộc xây dựng xã hội. Ông Trần Trinh Trạch nổi tiếng nhất về các đóng
góp xã hội của ông như xây cất Cư xá Đại học Đông Dương ở Hà Nội và vận
động lạc quyên giúp quỹ cứu trợ Pháp quốc”.
Gia
tộc Trần Trinh làm lễ thượng thọ cho ông Hội đồng Trạch rất lớn vào năm
1943, như thể họ linh cảm một kết cục sắp xảy ra, mặc dù lúc đó ông
Trạch vẫn còn khỏe mạnh. Sau lễ thượng thọ, ông Trạch kêu con trai là
Công tử Bạc Liêu Ba Huy đích thân lái chiếc Chevrolet đưa ông đi chơi
Sài Gòn, Đà Lạt, Vũng Tàu một chuyến gọi là “dối già”.
Tại
Vũng Tàu, một buổi chiều, sau khi tắm biển, ông Trạch trở lên khách sạn
và thấy ớn lạnh trong người, rồi sốt cả đêm. Cậu Ba Huy vội lái xe đưa
ông về Sài Gòn, nhưng đã không còn kịp, ông tắt thở trên đường đến bệnh
viện, thọ 71 tuổi. Đám tang của ông cũng lại là một sự kiện lớn ở Bạc
Liêu và cả Nam Kỳ. Tang lễ kéo dài đến 7 ngày với tất cả những nghi thức
rườm rà tốn kém nhất mà người ta có thể nghĩ ra. Hàng chục ngàn người
đã đi theo xe tang từ Nhà Lớn về xã Cái Dầy chôn cất ông.
Từ
một đứa trẻ chăn trâu với hai bàn tay trắng, một chút may mắn và ý chí
làm giàu đã đưa ông Trần Trinh Trạch tới tột đỉnh giàu sang, đến khi nằm
xuống vẫn là một trong những người giàu nhất Nam Kỳ. Thế nhưng, ông
không thể ngờ rằng, cậu con trai mà ông đặt nhiều kỳ vọng và trao cho cả
sản nghiệp là Ba Huy sau đó đã tàn phá núi gia sản với tốc độ còn nhanh
hơn người cha Hội đồng Trạch trước đó gầy dựng nên. Để đến khi Công tử
Bạc Liêu nằm xuống thì núi tài sản không lồ đã vơi đi gần hết. Để rồi
đến đời con cháu của Công tử Bạc Liêu, lại quay trở lại sống nghèo khổ
như cái thời ông Trạch đi chăn trâu cho người!