Lịch sử Dinh Độc Lập
1. Vài nét về lịch sử dinh Gouverneur de la Cochinchine:Năm
1858, Pháp đã phát động một cuộc tấn công vào Đà Nẵng, bắt đầu cuộc xâm
lược của Việt Nam. Năm 1867, Pháp đã hoàn thành cuộc chinh phục của
miền Nam Việt Nam (Đàng Trong), bao gồm các tỉnh Biên Hòa, Gia Định,
Định Tường, Vĩnh Long, An Giang và Hà Tiên. Để củng cố thuộc địa mới
được thành lập, vào ngày 23 tháng 2 năm 1868, Lagrandière, Thống đốc
Nam Kỳ có những động thái đầu tiên là xây dựng dinh Thống đốc Nam kỳ mới
và chọn một vị trí đắc địa nhất. Đó là một vùng đất cao nhất Sài Gòn,
rộng 15 ha, có nơi làm công viên, vườn cây và những bãi cỏ xanh mướt,
nhìn ra một không gian rộng thoáng.
Ngày
5.2.1865, tờ Courrier de Saigon (Thư tín Sài Gòn) đăng một thông báo
của chính quyền thuộc địa dành một khoản tiền thưởng trị giá 4.000 franc
cho các kiến trúc sư hay nghệ sĩ nào giới thiệu một đề án tốt nhất được
chọn làm cơ sở xây dựng dinh Thống đốc Nam kỳ.
Khoản
tiền thưởng không phải là nhỏ, song đến ngày 20.4.1865, vượt quá thời
hạn chót 25.3.1865, chỉ mới có một đề án được gửi tới ban tổ chức. Sau
đó không lâu, một đề án do một nhóm kiến trúc sư ở Singapore soạn thảo
được chuyển đến Sài Gòn, song sau khi xem xét kỹ cả hai đề án, ban tổ
chức không chấp thuận một cái nào.
Cuối
cùng, cơ hội bắt tay xây dựng dinh Thống đốc Nam kỳ đã xuất phát từ một
sự tình cờ. Trong một dịp ghé Hong Kong, hai đô đốc Pháp Ohier và Roze
(cũng từng làm Thống đốc Nam kỳ) được giới thiệu với một kiến trúc sư
người Pháp trẻ tên Hermitte, nguyên là học viên trường Mỹ thuật Paris.
Tại
Hong Kong, Hermitte đã đoạt giải thưởng trong việc thiết kế đồ án Tòa
Thị chính, vượt qua nhiều kiến trúc sư khác. Nắm bắt được những thông
tin này, Roze và Ohier trở về Sài Gòn, thuyết phục đương kim Thống đốc
Nam kỳ De La Grandìere chính thức nhờ Hermitte thiết kế và xây dựng dinh
Thống đốc.
Một
trong những biện pháp được sử dụng để lôi kéo nhân tài trẻ này là khoản
thu nhập 36.000 franc/năm, cao hơn rất nhiều so với các viên chức Pháp
đứng đầu các cơ quan tọa lạc tại Sài Gòn. Và những gì De La Grandìere
làm đã có một hiệu ứng tốt: chỉ mấy ngày sau khi đến Sài Gòn, Hermitte
trình một đồ án được viên Thống đốc chấp thuận ngay.
Chủ
nhật ngày 23 tháng 2 năm 1868, trước đông đảo người tham dự, lễ đặt
viên đá đầu tiên xây dựng dinh Thống đốc Nam kỳ đã diễn ra dưới sự chủ
trì của Đô đốc De La Grandìere, với sự tháp tùng của nhiều sĩ quan và
viên chức cao cấp của Pháp.
Người
làm phép cho công trình là Giám mục Miche với một diễn từ gây xúc động
cho cử tọa. Với sự phụ giúp của kiến trúc sư Hermitte, Thống đốc De La
Grandìere làm lễ đặt viên đá đầu tiên được chôn sâu 2,6m bên dưới mặt
đất, trên một tầng đất rất cứng chắc.
Đó
là một viên đá hoa cương vuông vắn, mỗi cạnh 50cm, được mang từ Biên
Hòa về. Trong thời gian xây dựng, Hermitte đã cho đào một hố móng sâu
3,5 mét, lấy đi 2.436 m3 đất đá và sử dụng khoảng 2 triệu viên gạch.
Đường Norodom nhìn từ dinh thống đốc Nam kỳ
Năm
1870, công trình đang thực hiện theo tiến độ đã định thì cuộc chiến
tranh Pháp-Phổ nổ ra, hoàng đế Pháp Napoléon III bị bắt làm tù binh,
nước Pháp thất trận. Sự kiện này ảnh hưởng không nhỏ đến việc xây dựng
dinh Thống đốc Nam kỳ, do nhiều vật liệu phải được chuyển từ chính quốc
sang. Công trình này được xây cất trên một diện tích rộng 12 ha, bao gồm
một dinh thự lớn với mặt tiền rộng 80 m, bên trong có phòng khách chứa
800 người, và một khuôn viên rộng với nhiều cây xanh và thảm cỏ. Phấn
lớn vật tư xây dựng dinh được chở từ Pháp sang. Tất cả đều được xây theo
phong cách tân Baroque giống với kiểu của hoàng đế Napoleon III.
Cũng
vì thế mà mãi đến năm 1875, kiến trúc đồ sộ này mới hoàn chỉnh phần
trang trí. Sốt ruột về sự chậm trễ trong tiến độ xây dựng và hoàn thành
cơ sở, ngay từ năm 1873, Thống đốc Nam kỳ Dupré đã dọn về đây để ở và
làm việc trong lúc việc trang trí còn tiếp diễn. Dinh gỗ “Thủy sư Đề
đốc” còn được lưu giữ, mãi đến năm 1877 mới bị phá hủy hoàn toàn.
Sau
khi xây dựng xong, dinh được đặt tên là dinh Norodom và đại lộ trước
dinh cũng được gọi là đại lộ Norodom, lấy theo tên của Quốc
vương Campuchia lúc bấy giờ là Norodom (1834-1904). Từ 1871 đến 1887,
dinh được dành cho Thống đốc Nam kỳ (Gouverneur de la Cochinchine) nên
gọi là dinh Thống đốc.
Trước
khi có dinh Thống đốc Nam kỳ là Dinh gỗ “Thủy sư Đề đốc” được xây dựng
bằng gỗ đặt trên một khu đất rộng được giới hạn bởi các con đường Nguyễn
Du-Tự Do-Gia Long-Hai Bà Trưng về sau (khu vực sau này là trường
Taberd). (nguồn historicvietnam.com do Tim Doling viết)
Trong sảnh dinh thống đốc Nam kỳ
Ngày 9
tháng 3 năm 1945, Nhật đảo chính Pháp, Dinh Norodom trở thành nơi làm
việc của chính quyền Nhật ở Việt Nam. Nhưng đến tháng 9 năm 1945, Nhật
thất bại trong Thế chiến II, Pháp trở lại chiếm Nam bộ, Dinh Norodom trở
lại thành trụ sở làm việc của Pháp ở Việt Nam. Sau năm 1954, người Pháp
rút khỏi Việt Nam. Việt Nam bị chia cắt thành 2 quốc gia, miền Bắc là
nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa, còn miền Nam là nước Quốc Gia Việt
Nam (sau thành Việt Nam Cộng Hòa). Ngày 7 tháng 9 năm 1954 Dinh Norodom
được bàn giao giữa đại diện Pháp, tướng 5 sao Paul Ely, và đại diện Quốc
gia Việt Nam, Thủ tướng Ngô Đình Diệm.
2. Vài nét về dinh Độc Lập thời đệ I Cộng Hòa:
Năm
1955, sau một cuộc trưng cầu dân ý, Thủ tướng Ngô Đình Diệm phế truất
Quốc trưởng Bảo Đại và lên làm Tổng thống. Ông quyết định đổi tên dinh
này thành Dinh Độc Lập. Từ đó Dinh Độc Lập trở thành nơi đại diện cho
chính quyền cũng như nơi ở của tổng thống và là nơi chứng kiến nhiều
biến cố chính trị. Thời kỳ này, Dinh Độc Lập còn được gọi là Dinh Tổng
Thống. Theo thuật phong thủy của Dinh được đặt ở vị trí đầu rồng, nên
Dinh cũng còn được gọi là Phủ đầu rồng.
Dinh Độc Lập thời đệ I Cộng Hòa
Đến
năm 1960 vào ngày 11 tháng 11 xảy ra cuộc đảo chính quân sự đầu tiên
tại Việt Nam Cộng hòa, do đại tá Nguyễn Chánh Thi và trung tá Vương Văn
Đông cầm đầu. Mục đích cuộc đảo chính nhằm lật đổ Tổng thống Việt Nam
Cộng hòa bấy giờ là Ngô Đình Diệm. Ban đầu, quân đảo chính kiểm soát
được một số vị trí quan trọng tại Sài Gòn do yếu tố bất ngờ, tuy nhiên
nhanh chóng thất bại khi các thủ lĩnh quân sự không kiên quyết cũng như
không có được sự ủng hộ quân chúng. Ngày 12 tháng 11, đại tá Huỳnh Văn
Cao chỉ huy bộ binh và thiết giáp thuộc Sư đoàn 7 đóng ở Mỹ Tho cùng đại
tá Trần Thiện Khiêm và trung tá Bùi Dzinh chỉ huy bộ binh và Pháo binh
thuộc Sư đoàn 21 đóng ở Sa Đéc đã tiến vào Sài Gòn. Cuộc giao tranh sau
đó chớp nhoáng nhưng khốc liệt với khoảng 400 người chết, trong đó có
nhiều thường dân tò mò xuống phố để xem cuộc giao tranh. Lực lượng trung
thành đã tiêu diệt gọn quân đảo chính.Sau khi cuộc đảo chính bị dập
tắt, một số sĩ quân quân đội và chính khách đối lập liên quan đến cuộc
đảo chính bị chính quyền Ngô Đình Diệm thanh trừng và đưa ra xét xử,
tiêu biểu như vụ án nhà văn Nguyễn Tường Tam.
Tem hình dinh Độc Lập
Tôi
còn nhớ sau cuộc đảo chính, quân dù của đại tá Nguyễn Chánh Thi rút đi
ngược đường Công Lý hướng lên Tân Sơn Nhất, dân chúng sài Gòn đã mua
bánh mì bỏ trong những giỏ cần xé lớn để dọc hai bên đường cho quân đảo
chính.
Cảnh dân chúng tán loạn khi đi xem đảo chính
Đến
năm 1962 lại xảy ra vụ ném bom dinh Độc Lập vào ngày 27 tháng 2 do
hai phi công tên là Nguyễn Văn Cử và Phạm Phú Quốc thuộc Quân lực Việt
Nam Cộng hòa thực hiện. Mục đích của cuộc tấn công là nhằm ám sát Tổng
thống Việt Nam Cộng hòa Ngô Đình Diệm và gia đình ông, những người tham
gia triều chính, trong đó có cố vấn Ngô Đình Nhu.
Vào
lúc 7 giờ sáng, bầu trời Sài Gòn bị khuấy động bởi tiếng bom và tiếng
súng máy nổ. Dinh Độc Lập chìm trong biển khói của cuộc tấn công từ hai
chiếc máy bay ném bom A-1 Skyraider được Hoa Kỳ cung cấp.
Hai
chiếc máy bay này đã ném bom và napalm. Nhiều quả rocket và nhiều loạt
đạn súng máy cũng được bắn vào tòa nhà. Ngày hôm đó nhiều mây, hai viên
phi công này đã bay với độ cao khoảng 150 m, đã hoàn thành một vòng tấn
công tứ phía trước khi bay lên mây. Họ đã tấn công trong 30 phút trước
khi lực lượng phòng không trung thành với Ngô Đình Diệm có thể đến và
phản công.
Cuộc
tấn công đã làm cho lực lượng bảo vệ Sài Gòn bất ngờ, bởi vì họ đã
không biết là các chiếc máy bay này độc lập tác chiến hay có sự phối hợp
với lực lượng dưới đất. Xe tăng và xe chở lính vội vàng đến tham chiến
và pháo đất đối không khai mào trước, một chút nữa thì bắn trúng máy bay
trung thành đang truy đuổi hai chiếc phản loạn.
Cuộc
tấn công đã kết thúc trong một tiếng đồng hồ nhưng hai viên phi công đã
không trút hết bom, nếu không đã có thể san phẳng Dinh Độc Lập. Máy bay
của Quốc đã bị hư hỏng bởi tảo lôi hạm ở trên sông Sài Gòn và đã hạ
cánh ở Nhà Bè. Cử thì đã đến Campuchia an toàn, tin rằng cuộc tấn công
đã thành công.
Quả
bom nặng 500 lb đầu tiên đã xuyên vào một căn phòng mà trong đó Diệm,
một người hay thức dậy sớm đang đọc sách. Quả bom này không nổ và Diệm
đã chạy xuống tầng hầm của Dinh Độc Lập cùng với Tổng giám mục Ngô Đình
Thục, em trai Ngô Đình Nhu và vợ Nhu là Trần Lệ Xuân và con của họ. Trần
Lệ Xuân bị gãy tay khi đang chạy xuống tầng hầm. Ba người phục vụ và
lính gác chết, 30 người khác bị thương. Một nhà thầu người Mỹ leo lên
nóc nhà để xem vụ tấn công đã bị rơi xuống và chết.
Tôi
vẫn nhớ sáng hôm đó khi chuẩn bị đi học (lúc đó tôi học tư ở trường
Michelet góc ngả tư Trương Minh Giảng - Hiền Vương) thì tiếng máy bay
gầm rú trên bầu trời và một tiếng nổ lớn vang lên. Pháo cao xạ từ dinh
bắn lên xối xả, đạn bay hết tầm rơi vào khu biệt thự kế bên tôi ở (230
Công Lý); mọi người chạy hết vào trong nhà tránh đạn.
Bà Trần Lệ Xuân đang xem bản thiết kế dinh Độc Lập mới
Do
không thể khôi phục lại, ông Ngô Đình Diệm đã cho san bằng và xây một
dinh thự mới ngay trên nền đất cũ theo đồ án thiết kế của kiến trúc
sư Ngô Viết Thụ, người Việt Nam đầu tiên đạt giải Khôi nguyên La Mã.
Dinh
Độc Lập mới được khởi công xây dựng ngày 1 tháng 7 năm 1962. Trong thời
gian xây dựng, gia đình Tổng thống Ngô Đình Diệm tạm thời chuyển sang
sống tại Dinh Gia Long. Công trình đang xây dựng dở dang thì ông Ngô
Đình Diệm bị phe đảo chính ám sát ngày 2 tháng 11 năm 1963.
3. Vài nét về dinh Độc Lập thời đệ II Cộng Hòa:
Ngày
31 tháng 10 năm 1966, người chủ tọa buổi lễ là ông Nguyễn Văn Thiệu lúc
đó là Chủ tịch Ủy ban Lãnh đạo Quốc gia. Từ ngày này, Dinh Độc Lập mới
xây trở thành nơi ở và làm việc của tổng thống Việt Nam Cộng Hòa. Tổng
thống Việt Nam Cộng Hòa Nguyễn Văn Thiệu sống ở dinh này từ tháng
10 năm 1967 đến ngày 21 tháng 4 năm 1975.
Phí
tổn xây dựng Dinh Độc Lập tốn khoảng 150.000 lượng vàng và mỗi quân
nhân, nhân viên chính quyền thời ấy phải đóng góp mỗi người một ngày
lương. Một vài số liệu về vật liệu đã sử dụng: bê-tông cốt sắt độ
12.000m3, gỗ quí 200m3, kính làm các cửa 2.000m2, đá rửa và đá mài
20.000m2...
Theo
đồ án, tòa nhà có diện tích xây dựng 45.000 m2 (rộng 21 gian 85m, sâu
19 gian 80m). Diện tích mặt sàn sử dụng khoảng 20.000m2, gồm ba tầng
chính, hai gác lửng, một sân thượng (có sân bay trực thăng) và một tầng
nền. Tổng số các phòng trong toàn dinh là 95 phòng, không kể các khu vực
vệ sinh, hành lang và khách sảnh. Các phòng lớn bố trí cho các công
việc đối nội, đối ngoại nằm ở các tầng trệt và lầu 1, lầu 2. Trang trí
trong dinh có nhiều bức họa của những danh họa có tiếng đương thời. Bức
"Giang sơn cẩm tú" của kiến trúc sư Ngô Viết Thụ, bức "Khuê văn các",
"Vua Trần Nhân Tông" của họa sĩ Thái Văn Ngôn.
Đặc
biệt ở phòng trình quốc thư có bức "Bình Ngô đại cáo" (của Nguyễn Trãi
viết trong thời giúp Lê Lợi chống giặc Minh), một bức tranh sơn mài lớn
gồm 40 bức tranh sơn mài nhỏ ghép lại, tả cảnh sinh hoạt của nhân dân
Việt Nam dưới thời Lê của họa sĩ Nguyễn Văn Minh. Ngoài ra còn bức tranh
"Giang Sơn Cẩm Tú" của KTS Ngô Viết Thụ; bức "Khuê Văn Các" (Vua Trần
Nhân Tông) của họa sĩ Thái Văn Ngôn.
Khi
thiết kế Dinh Ðộc lập, Kiến trúc sư Ngô Viết Thụ muốn tìm một ý nghĩa
văn hóa cho công trình, nên mọi sự xếp đặt từ bên trong nội thất cho đến
tiền diện bên ngoài, tất cả đều tượng trưng cho triết lý cổ truyền,
nghi lễ Phương đông và cá tính của dân tộc. Kiến trúc sư Ngô Viết Thụ đã
kết hợp hài hoà giữa nghệ thuật kiến trúc hiện đại với kiến trúc truyền
thống Phương Ðông. Toàn thể bình diện của Dinh làm thành hình chữ CÁT,
có nghĩa là tốt lành, may mắn; Tâm của Dinh là vị trí phòng Trình quốc
thư; Lầu thượng là Tứ phương vô sự lầu hình chữ KHẨU để đề cao giáo dục
và tự do ngôn luận. Hình chữ KHẨU có cột cờ chính giữa sổ dọc tạo thành
hình chữ TRUNG như nhắc nhở muốn có dân chủ thì phải trung kiên. Nét
gạch ngang được tạo bởi mái hiên lầu tứ phương, bao lơn danh dự và mái
hiên lối vào tiền sảnh tạo thành hình chữ TAM. Theo quan niệm dân chủ
hữu tam Viết nhân, viết minh, viết võ, ý mong muốn một đất nước hưng
thịnh thì phải có những con ngườ i hội đủ 3 yếu tố Nhân, Minh, Võ. Ba
nét gạch ngang này được nối liền nét sổ dọc tạo thành hình chữ VƯƠNG,
trên có kỳ đài làm thành nét chấm tạo thành hình chữ CHỦ tượng trưng cho
chủ quyền đất nước. Mặt trước của dinh thự toàn bộ bao lơn lầu 2 và lầu
3 kết hợp với mái hiên lối vào chính cùng 2 cột bọc gỗ phía dưới mái
hiên tạo thành hình chữ HƯNG ý cầu chúc cho nước nhà được hưng thịnh
mãi.
Vẻ
đẹp kiến trúc của Dinh còn được thể hiện bởi bức rèm hoa đá mang hình
dáng những đốt trúc thanh tao bao xung quanh lầu 2. Rèm hoa đá được biến
cách từ bức cửa bàn khoa của các cung điện Cố đô Huế không chỉ làm tăng
vẻ đẹp của Dinh mà còn có tác dụng lấy ánh sáng mặt trời.
Ði
vào bên trong Dinh, tất cả các đuờng nét kiến trúc đều dùng đường ngay
sổ thẳng, các hành lang, đại sảnh, các phòng ốc đều lấy câu chính đại
quang minh làm gốc.
Sân
trước của Dinh là một thảm cỏ hình oval có đường kính 102m. Màu xanh rì
của thảm cỏ tạo ra một cảm giác êm dịu, sảng khoái cho khách ngay khi
bước qua cổng.
Chạy
dài theo suốt chiều ngang của đại sảnh là hồ nước hình bán nguyệt.
Trong hồ thả hoa sen và hoa súng gợi nên hình ảnh những hồ nước yên ả ở
các ngôi đình, ngôi chùa cổ kính của Việt Nam.
Dinh có diện tích 120.000m2 (300m x 400m), được giới hạn bởi 4 trục đường chính đó là:
• Ðường Công Lý ở phía Ðông Bắc (mặt chính của Dinh)
• Ðường Huyền Trân Công Chúa ở phía Tây Nam (mặt sau của Dinh)
• Ðường Hồng Thập Tự ở phía Tây Bắc (phía bên trái Dinh)
• Ðường Nguyễn Du ở phía Ðông Nam (phía bên phải Dinh)
Dinh có 04 khu nhà:
•
Khu nhà chính hình chữ T diện tích mặt bằng là 4.500m2, cao 26m, nằm ở
vị trí trung tâm của khu đất. Ðây từng là nơi ở và làm việc Tổng thống
ngụy quyền Sài Gòn. Khu này có 03 tầng lầu, 2 gác lửng, 1 sân thượng, 1
tầng nền và 1 tầng hầm. Tổng diện tích sử dụng là 20.000m2 chia làm 95
phòng. Mỗi phòng có 1 chức năng riêng, kiến trúc và các trang trí phù
hợp với mục đích sử dụng của mỗi phòng.
• Khu nhà 2 tầng diện tích 8m x 20m phía đường Nguyễn Du trước 1975 là trụ sở làm việc của Ðảng Dân chủ.
• Khu 04 nhà 2 tầng phía góc đường Nguyễn Du – Huyền Trân Công Chúa trước 1975 là khu nhà ở của tiểu đoàn bảo vệ Dinh Ðộc lập.
•
Khu nhà trệt phía góc đường Huyền Trân Công Chúa – Hồng Thập Tự, trước
1975 là khu sinh hoạt của đội cận vệ phi hành đoàn lái máy bay cho
Nguyễn Văn Thiệu, của bộ phận chăm sóc vườn cây.
Ngoài
các khu nhà trên, ở góc trái Dinh phía đường Hồng Thập Tự còn có một
nhà bát giác đuờng kính 4m, xây trên một gò đất cao, chung quanh không
xây tường, mái ngói cong cổ kính làm nơi hóng mát, thư giãn.
Các
bạn nhìn thấy những cây cao bên trong dinh, đó là những cây nhãn rừng.
Trong dinh có rất nhiều sóc, chúng thường ăn trái này. Đó là hồi trước
năm 1975 chứ không biết giờ này còn không.
Tôi
còn nhớ vào năm 1970 vào dịp tất Trung thu, tổng thống Nguyễn Văn Thiệu
có tổ chức lễ trước thềm của dinh. Lúc đó trường mình có dự, thầy Linh
dẫn một ban hợp ca hát bài Trung thu gặp mưa do thầy sáng tác. Trùng hợp
thay đêm đó trời mưa, học sinh các trường tràn vào sảnh chính của dinh
dẫm lên sàn và thảm làm dơ hết.
Xen
giữa 04 khu nhà trên là những bãi cỏ xanh mướt, vườn cây cổ thụ, những
chậu cây kiểng quí và 04 sân tenis phía sau khu nhà chính.
Dinh
Độc Lập lúc đầu chưa có bao bọc bởi hàng dây kẽm gai, chỉ có từ năm
1968 mới được rào thêm để bảo vệ an ninh cho dinh để tránh bị tấn công
như trong vụ tết Mậu Thân và đường Huyền Trân Công Chúa cũng bị ngăn lại
không cho xe qua lại.
Về sau có thêm những rào sắt đặt dài theo hàng rào dinh
Đường Huyền Trân Công Chúa bị chắn ngang bởi hàng rào bảo vệ
Dinh
độc Lập được bao bọc bởi hàng rào kẽm gai bảo vệ dưới mặt đất nhưng trớ
trêu thay nó bị tấn công từ trên không. Ngày 8 tháng 4 năm 1975,
chiếc máy bay F-5E do Nguyễn Thành Trung lái, xuất phát từ Biên Hòa, đã
ném bom Dinh, gây hư hại không đáng kể. Một trái bom rơi cạnh sân
trực thăng trên nóc Dinh nhưng chỉ nổ phần đầu cắm xuống làm
lún sạt một khoảng nhỏ. Lúc đó tại trường Lê Quý Đôn các lớp khối
10 trở xuống đang thi đệ nhị bán niên riêng lớp tôi thì bắt đầu vô lớp
học toán với thầy Quãng Lan, thì chúng tôi bỗng nghe một tiếng rú của
máy bay trên đầu và một tiếng nổ sau là tiếng pháo cao xạ. Chúng tôi
chạy ra ngoài lớp thì thấy mấy thầy cô và các học sinh chạy tán loạn,
tôi với anh Hồ Tuấn Ngọc lấy máy chụp hình chạy ra cổng trước băng qua
đường và chụp một số hình. Rất tiếc giờ anh Ngọc không còn và các hình
đó cũng thất lạc. Đây là lần thứ hai trong lịch sử dinh Độc Lập bị đánh
bom.
Rồi
lịch sử cái gì đến phải đến tổng thống Nguyễn Văn Thiệu từ chức nhường
quyền lãnh đạo cho ông Trần Văn Hương nhưng ông này không ở trong dinh.
Đến ngày 28 tháng 4 năm 1975, Dương Văn Minh lên làm tổng thống chỉ ở
vỏn vẹn hai ngày trong dinh.Trưa ngày 30 tháng 4 năm 1975, chiếc xe tăng T 54 của Bùi Quang Thận húc sập cổng dinh chấm dứt chế độ Việt Nam Cộng Hòa.