Chữ Quốc Ngữ từ đâu mà có - Phan Hồng Vân NLS ĐT- K2 Sưu tầm -

Chữ Quốc Ngữ  từ đâu mà có, ra đời lúc nào và thay thế chữ Hán ra sao . Tài liệu cũ, xin mời đọc lại.

Nhân kỷ niệm 85 năm bãi bỏ chữ Nho (1919) và
80 năm (1924) quyết định đưa chữ Quốc ngữ vào dạy
tại cấp tiểu học Việt Nam
___

Sự ra đời   của   chữ quốc ngữ -
Cái chết siêu việt   của     ông Nguyễn Văn Vĩnh
 

Alexandre de Rhodes
(1591 - 1660)

Nguyễn Văn Vĩnh
(1882 - 1936)
 
 
            Chữ Hán từng được dùng ở Việt Nam trong vòng một ngàn năm mãi đến tận đầu thế kỷ thứ 20.
 
Alexandre de Rhodes (sinh năm 1591 tại Avignon, Pháp;
mất năm 1660 tại Ispahan, Ba Tư) đã sang Việt Nam
truyền đạo trong vòng sáu năm (1624 -1630).
 
Ông là người có công rất lớn trong việc La-mã hoá tiếng Việt
(nhiều tác giả gọi là La-tinh hóa. Thực ra mẫu tự
chữ cái tiếng Việt hiện nay là mẫu tự chữ Roman chứ không phải
là chữ La-tinh).
Kế tục công trình của những người đi trước là các tu sĩ Jesuit
(dòng Tên) người Bồ Đào Nha như Francisco de Pina,
Gaspar d’Amaral, Antonio Barbosa, v.v.
 
trong việc La-mã hóa tiếng Việt, Alexandre de Rhodes đã xuất
bản Bài giảng giáo lý Tám ngày đầu tiên bằng tiếng Việt
và cuốn từ điển Việt - La - Bồ đầu tiên     vào năm 1651 tại Rome.
 
*** Hệ thống chữ viết tiếng Việt    dùng chữ cái La-mã này
được chúng ta ngày nay gọi là    chữ quốc ngữ
(chữ viết của quốc gia)***
 
            Nguyễn Văn Vĩnh sinh năm 1882 tại Hà Nội cái năm
thành Hà Nội thất thủ vào tay quân Pháp do đại tá Henri Rivière
chỉ huy. Tổng đốc Hà Nội Hoàng Diệu thắt cổ tự vẫn.
 
Gia đình Nguyễn Văn Vĩnh nghèo nên không có tiền cho con cái
đi học. Lên tám tuổi, cậu Vĩnh đã phải đi làm để kiếm sống.
 
Công việc của cậu lúc đó là làm thằng nhỏ kéo quạt để làm mát
cho một lớp đào tạo thông ngôn do người Pháp mở ở đình
Yên phụ - Hà Nội.
 
Vừa kéo quạt, cậu vừa nghe lỏm bài giảng.
Cậu ghi nhớ mọi thứ rất nhanh và còn trả lời được các câu hỏi
của thày giáo trong khi các cậu con nhà giàu trong lớp còn
đương lúng túng.
 
Thầy giáo người Pháp thấy vậy bèn nói với ông hiệu trưởng
giúp tiền cho cậu vào học chính thức.
Năm 14 tuổi Nguyễn Văn Vĩnh đỗ đầu khóa học
và trở thành một thông dịch viên xuất sắc.
 
Sau đó ông được bổ làm trợ lý cho công sứ Pháp tỉnh Bắc Ninh.
 
 Năm 1906, lúc ông 24 tuổi, Nguyễn Văn Vĩnh được Pháp gửi
sang dự triển lãm tại Marseilles.
Tại đây, ông được tiếp cận với  kỹ nghệ in ấn và báo chí.
Ông còn là người Việt Nam đầu tiên gia nhập hội Nhân quyền Pháp.
 
            Trở về Việt Nam, Nguyễn Văn Vĩnh từ bỏ nghiệp quan
chức  và bắt đầu làm báo tự do.
 
Năm 1907 ông mở nhà in đầu tiên ở Hà Nội và  xuất bản tờ
Đăng Cổ Tùng Báo - tờ báo đầu tiên bằng chữ quốc ngữ ở Bắc Kỳ.
Năm 1913 ông xuất bản tờ Đông dương Tạp chí để dạy dân
Việt viết văn bằng quốc ngữ.
 
Ông là người đầu tiên dịch ra chữ quốc ngữ các tác phẩm
của các đại văn hào Pháp như Balzac, Victor Hugo, Alexandre
Dumas, La Fontaine, Molière, v.v. và cũng là người đầu tiên dịch
Truyện Kiều sang tiếng Pháp.
Bản dịch Kiều của ông Vĩnh rất đặc sắc, vì ông không chỉ dịch
cả câu    mà còn dịch nghĩa từng chữ   và kể rõ các tích cổ
gắn với nghĩa đó - một điều chỉ có những ai am hiểu sâu
sắc văn chương  Việt Nam (bằng chữ Nôm),Trung Hoa (bằng chữ
Nho), và Pháp mới có thể làm được.
 
Sự cố gắng và sức làm việc phi thường của ông Vĩnh
đã góp phần rất quan trọng trong việc truyền bá kiến thức và
văn hoá phương Tây trong dân Việt, và đẩy xã hội Việt Nam
đi đến chỗ dần dần chấp nhận chữ quốc ngữ. 
Năm 1915 vua Duy Tân ra chỉ dụ bãi bỏ các khoa thi
(Hương - Hội  - Đình) ở Bắc Kỳ. Năm 1918 vua Khải Định ra chỉ
dụ bãi bỏ các khoa thi này ở Trung Kỳ và đến năm 1919
bãi bỏ hoàn toàn các trường dạy chữ Nho, thay thế bằng hệ
thống trường Pháp - Việt.
Ngày 18 tháng 9 năm 1924, toàn quyền Đông Dương Merlin
ký quyết định đưa chữ Quốc Ngữ vào dạy ở ba năm đầu cấp
tiểu học.
 
Như vậy là, sau gần ba thế kỷ kể từ khi cuốn từ điển Việt –
La - Bồ của Alexandre de Rhodes ra đời, người Việt Nam mới
thật sự đoạn tuyệt với chữ viết của Trung Hoa, chính thức chuyển
sang dùng chữ quốc ngữ.
 
Đây quả thực là một cuộc chuyển hóa vô cùng lớn lao, trong
đó ông Nguyễn Văn Vĩnh đã vô hình chung đóng vai trò   
một nhà văn hóa lớn của dân tộc Việt Nam.
 
    Ông Nguyễn Văn Vĩnh, tuy nhiên, đã không thể kiếm sống bằng
nghề báo của mình. 
Ông là người luôn lên tiếng phản đối chính sách hà khắc của
Pháp đối với thuộc địa,
là người Việt Nam đầu tiên và duy nhất đã hai lần từ chối    huân chương Bắc đẩu bội tinh của chính phủ Pháp ban tặng,
và cũng là người đã cùng với bốn người Pháp viết đơn gửi
chính quyền Đông Dương phản đối việc bắt giữ cụ Phan Chu Trinh.
 Vì thế chính quyền thuộc địa của Pháp ở Đông Dương chẳng
ưa gì ông. 
Tòa báo của ông vỡ nợ. Gia sản của ông bị tịch biên.
 
Ông bỏ đi đào vàng ở Lào  và mất ở đó năm 1936 vì sốt rét.
 
Người ta tìm thấy xác ông nằm trong một chiếc thuyền độc
mộc trên một dòng sông ở Sepole. 
Trong tay ông lúc đó vẫn còn nắm chặt một cây bút và một quyển
sổ ghi chép: Ông đang viết dở thiên ký sự bằng tiếng Pháp Một
tháng với những người tìm vàng.
Khi đoàn tàu chở chiếc quan tài mang thi hài ông Vĩnh về đến
ga Hàng Cỏ, hàng ngàn người dân Hà Nội đứng chờ trong một
sự yên lặng vô cùng trang nghiêm trước quảng trường nhà ga
để đưa tiễn ông
Con người bằng tài năng và sức lao động không biết mệt mỏi của
Mình đã góp phần làm cho chữ quốc ngữ trở thành chữ viết của
toàn dân Việt.  
  ---Tôi đã vẽ bức tranh Sự ra đời của chữ quốc ngữ- Cái chết siêu việt của ông Nguyễn Văn Vĩnh với lòng ngưỡng mộ sâu sắc đối với
hai vĩ nhân nói trên của dân tộc Việt Nam –
Alexandre de Rhodes và Nguyễn Văn Vĩnh.
 
   ------         Lời cảm ơn:
            Tác giả bài viết này biết ơn thân sinh của mình –
nhà giáo Nguyễn Đình Nam, người đầu tiên   kể cho tác giả  
 về cuộc đời và sự nghiệp   của cụ Nguyễn Văn Vĩnh
từ khi tác giả  còn là học sinh tiểu học, 
khi sách giáo khoa chính thống  còn gọi Alexandre Rhodes là
gián điệp còn Nguyễn Văn Vĩnh là bồi bút của Pháp.
 
Tác giả xin chân thành cảm ơn
ông Nguyễn Kỳ - con trai cụ Nguyễn Văn Vĩnh,
và ông Nguyên Lân Bình - cháu nội cụ Nguyễn Văn Vĩnh 
vì những câu chuyện xúc động về cuộc sống và sự nghiệp
của cụ Nguyễn Văn Vĩnh cũng như của gia tộc cụ.
 
Tác giả xin cảm ơn thày Trí - cháu ngoại cụ Nguyễn Văn Vĩnh ,
đồng thời từng là thày dạy toán của tác giả  khi tác giả là học
sinh trung học.
Tokyo, 10/11/2004