LỊCH SỬ LỄ GIÁNG SINH VÀ CÂY NOEL
LỊCH SỬ LỄ GIÁNG SINH VÀ CÂY NOEL
Lễ
Giáng-Sinh là lễ kỷ-niệm ngày sinh-nhật của Chúa Jesus. Tuy lễ
Giáng-Sinh là ngày lễ của những người theo đạo Thiên-Chúa, nhưng cứ đến
ngày lễ này thì mọi người, bất cứ theo đạo nào, cũng được hưởng niềm vui
tự-nhiên do không khí Giáng-Sinh mang lại.
Không phải chỉ những
người tin theo đạo Thiên-Chúa mới đi lễ nhà thờ, chăng đèn kết hoa
trước nhà, và trưng-bầy cây Nô-En (Noel) trong phòng khách mà mọi người
dù theo bất-cứ đạo nào cũng tổ-chức ăn-mừng lễ Giáng-Sinh. Người người
đều vui, cảm-thông, và hưởng trọn niềm ấm-cúng thanh-bình cùng yêu
thương trong mùa Giáng-Sinh đầy hy-vọng vì Mùa Giáng-Sinh đã tạo cơ-hội
giúp mọi người bỏ hết những hận-thù và ích-kỷ nhỏ-nhen nếu có mà họ
không thể thực-hiện trước đó được.
Có rất nhiều người cảm-thông
ý-nghĩa của mùa Giáng-Sinh một cách tự-nhiên mà không thắc-mắc hay
băn-khoăn gì. Nhưng nếu tìm-hiểu thêm ý-nghĩa của Lễ Giáng-Sinh, Cây
Nô-En, và Ông Già Nô-En, chúng ta sẽ thấy thú-vị vô cùng.
I. Lễ Giáng-Sinh
Tiếng
Anh gọi Lễ Giáng-Sinh là Christmas, tiếng Anh cổ thời xưa gọi Lễ
Giáng-Sinh là Cristes Maesse. Từ Cristes Maesse có nghĩa ngày lễ của
Chúa (Christ`s Mass). Ngày Lễ Giáng-Sinh được tổ-chức vào 25 Tháng 12
dương-lịch để kỷ-niệm ngày sinh của Chúa Jesus Christ và được coi là
ngày nghỉ lễ chính-thức của các nước có người theo đạo Thiên-Chúa.
Câu
truyện về ngày sinh của Chúa Jesus có tên bằng tiếng Anh là Nativity.
Chúa Jesus do Đức Mẹ Đồng-Trinh tự-nhiên mang thai mà sinh ra. Sự
thụ-thai này do quyền-lực thần-diệu của Thượng-Đế tạo ra trong khi bà
Mary còn đồng-trinh. Chúa Jesus được sinh ra trong một chuồng ngựa
(stable) tại Bethlehem và được đặt trong máng cỏ (manger) vì lúc đó
trong nhà trọ (inn) không còn một phòng trống nào. Sau đó, Chúa Jesus
được Đức Mẹ Mary và chồng của bà là Joseph nuôi-nấng tại Nazareth, một
thành phố ở phía bắc Israel. Khi được 12 tuổi, Chúa Jesus đến giáo-đường
ở Jerusalem và đã làm kinh-ngạc các giáo-sư về môn Mosaic Law với sự
hiểu biết của ngài.
Khi lớn lên, Chúa Jesus chọn được 12 người
Tông-Đồ cùng ngài đi khắp nơi ở Palistine để giảng đạo, chữa bệnh, và
thực-hiện các phép-lạ. Một trong những phép-lạ đó là phép “Loaves and
Fishes”(những ổ bánh mì và những con cá). Chuyện phép-lạ này được người
ta truyền lại là khi Chúa Jesus thuyết-giảng ở một đám đông trong lúc họ
rất đói, người ta chỉ tìm thấy 5 ổ bánh mì và 2 con cá. Thế mà nhờ Chúa
Jesus làm phép trên 5 ổ bánh mì và 2 con cá này rồi ra-lệnh cho các
đệ-tử của ngài phân-phát đồ ăn cho tất cả mọi người. Sau khi mọi người
được phát đầy-đủ đồ ăn và ăn một cách no- nê, người ta thấy 12 chậu đồ
ăn vẫn còn đầy.
Nhờ việc đi rao giảng lời của Thượng-Đế, ngài đã
có rất nhiều tín-đồ và đồng-thời cũng có nhiều kẻ thù. Cuối cùng, Chúa
Jesus bị tên Judas Iscariot phản-bội, bị Pontius Pilate - người lãnh-đạo
dân Do-Thái lúc bấy giờ kết-án, và bị chính-quyền La-Mã đóng đinh trên
thập-tự giá. Những người Thiên-Chúa giáo tin là ngài đã cải-tử hoàn-sinh
và sự phục-sinh này đã cứu-vớt được bao linh-hồn.
Theo những
tài-liệu liên-quan tới ngày sinh-nhật của Chúa Jesus, người ta thấy Chúa
Jesus không phải sinh vào ngày 25 tháng 12 mà có thể vào tháng 4 hay
tháng 5 và có lẽ trước đó 3 năm, tức là cách đây (2004) là 2007 năm.
Tây-lịch được tính theo năm đầu-tiên sau khi Chúa sinh ra đời. Theo
niên-giám La-Mã, Lễ Giáng-Sinh đầu-tiên được tổ-chức ở La-Mã vào năm 336
Tây-Lịch Kỷ-Nguyên. Tuy-nhiên, ở miền đông đế-quốc La-Mã, một buổi lễ
được tổ-chức vào ngày 6 tháng giêng để kỷ-niệm chung cho ngày sinh-nhật
và ngày rửa-tội của Chúa Jesus. Cũng vào ngày 6 tháng giêng này ở
Jerusalem thuộc Do-Thái (Israel) người ta chỉ tổ-chức lễ kỷ-niệm ngày
sinh-nhật của Chúa mà thôi.
Mãi vào thế kỷ thứ IV, hầu-hết các
nhà thờ ở miền đông đế-quốc La-Mã mới chấp-nhận tổ- chức sinh-nhật Chúa
Jesus Christ vào ngày 25 tháng 12. Trong lúc ấy ở Jerusalem, người ta
vẫn chống-đối việc tổ-chức Lễ Giáng-Sinh. Nhưng về sau này, Lễ
Giáng-Sinh lại được chấp-nhận ở Jerusalem. Các nhà thờ ở nước Armenia,
một nước ở Tây-Á, đã không chấp-nhận Lễ Giáng-Sinh. Họ tổ-chức ngày
sinh-nhật của Chúa vào 6 tháng giêng. Sau khi Lễ Giáng-Sinh, 25 tháng
12, được thiết- lập ở miền đông đế-quốc La-Mã, ngày kỷ-niệm lễ rửa-tội
của Chúa được tổ-chức vào 6 tháng giêng, ngày mà ba vị thông-thái
(Magus) từ miền đông đế-quốc La-Mã đến Bethlehem để chiêm-ngưỡng Chúa
Hài-Đồng.
Những tục-lệ cổ-truyền về Lễ Giáng-Sinh bắt nguồn từ
sự trùng-hợp ngày sinh của Chúa với những ngày lễ kỷ-niệm về nông-tang
và mặt trời vào mùa đông (Winter Solstice) của những người không theo
đạo Thiên-Chúa.
Ở La-Mã, ngày 17 tháng 12 là ngày lễ Saturnalia
để kỷ-niệm thần Saturn. Đây là thời-gian ăn chơi tưng-bừng nhất và là
dịp để mọi người trao-đổi quà kỷ-niệm. Ngày 25 tháng 12 cũng được coi là
ngày sinh-nhật của Thần Mithra, Thần Toàn-Chân Thái-Dương, thuộc xứ
Ba-Tư. Năm mới của người La-Mã là ngày 1 tháng giêng dương-lịch. Vào
những dịp này người ta trang-hoàng nhà cửa bằng cây lá xanh tươi và hoa
đèn rực-rỡ. Trẻ con và người nghèo được trao quà tặng.
Lửa, đèn,
và nến là vật tượng-trưng của sự ấm-cúng và sự sống, nó luôn-luôn
liên-hệ với các lễ-lạc vào mùa đông của cả những người theo đạo
Thiên-Chúa và các đạo khác. Từ thời trung-cổ, cây thông, một loại cây
vạn-niên-thanh, là biểu-hiệu cho sự sống và luôn-luôn liên-hệ với Lễ
Giáng-Sinh.
II. Cây Nô-En
Tiếng
Nô-En mà người Việt ta thường dùng bắt nguồn từ chữ Pháp là “Noel” và
có nghĩa là Giáng-Sinh. Cây Nô-En có tên bằng tiếng Anh là Christmas
Tree. Cây Nô-En thường là cây thông nhân-tạo làm bằng ni-lông (lylon)
hay là cây thông thật được chặt ở rừng đem về nhà. Người ta trang- trí
cây thông này bằng dây đèn đủ màu cùng với các đồ trang-hoàng khác như
giấy bạch-kim để giả làm tuyết-phủ, kẹo xanh trắng đỏ có hình cây gậy
ba-toong (candy canes), các gói quà giả, các quả bóng nhỏ đủ màu làm
bằng thủy-tinh, hình thiên-thần, và cây thánh-giá, v.v. Cây thông sau
khi được trang-hoàng như thế có tên là cây Nô-En. Dưới chân cây Nô-En
người ta có các gói quà do những người trong gia-đình mua để tặng cho
nhau. Cây Nô-En là một thứ không thể thiếu được trong mùa Giáng-Sinh.
Việc
dùng cành thông và vòng hoa kết bằng lá xanh (wreath) treo ở mặt ngoài
cánh cửa nhà để biểu-lộ sự ước-mong vĩnh-cửu cho đời sống con người là
cổ-tục của người Ai-Cập (Egyptian), Trung-Hoa, và Do-Thái. Việc tôn-thờ
cây thông và vòng hoa rất được thông-dụng ở Châu-Âu đối với người không
theo đạo Thiên-Chúa. Tục-lệ này vẫn còn tồn-tại sau khi họ nhập-đạo
Thiên-Chúa.
Người ở các nước Thụy-Điển, Đan-Mạch, và Na-Uy, gọi
chung là người Scandinavian, thường trang-hoàng nhà-cửa và vựa lúa với
các loại cây vạn-niên-thanh vào dịp năm mới để xua đuổi ma-quỉ. Họ còn
dựng cây cho chim trú ngụ trong mùa Giáng-Sinh. Phong-tục này còn có ở
Đức. Người ta đặt cây Nô-En ngay ở lối ra vào hay ở trong nhà vào những
ngày nghỉ lễ giữa mùa đông.
Cây Nô-En hiện-đại ngày nay có được
là do phong-tục của Tây-Đức. Cái khung-cảnh chính của vở kịch nổi tiếng
hồi trung-cổ về sự-tích Ông Adam và Bà Eve là một cây thông có treo
những quả táo gọi là Cây Thiên-Đàng tượng-trưng cho Vườn Địa-Đàng
(Garden of Eden). Người Đức dựng Cây Thiên-Đàng (Paradise Tree) trong
nhà vào ngày 24 tháng 12, ngày hội tôn-giáo, để kỷ-niệm Ông Adam và Bà
Eve. Người ta treo những miếng bánh bít-qui (biscuit) gọi là wafers trên
Cây Thiên-Đàng tượng-trưng cho dấu-hiệu của Chúa Jesus đứng ra chuộc
tội cho nhân-loại. Sau này người ta thay thế bánh Wafers bằng bánh
cúc-ki (cookie) có đủ hình-dáng khác nhau. Cả những cây đèn-cầy hay nến
cũng được dùng làm biểu-tượng của Chúa đứng ra chộc tội cho nhân-loại.
Trong
cùng một phòng có trưng-bày cây Nô-En vào mùa Giáng-Sinh, người ta còn
dựng một Kim-Tự-Tháp Giáng-Sinh (Christmas Pyramid). Đây là một cấu-trúc
bằng gỗ hình tam-giác với các kệ để đồ (shelves). Bên trên các kệ này
có bày các pho-tượng nhỏ và trang-trí bằng cây vạn-niên- thanh, đèn cầy,
và một ngôi sao. Vào khoảng thế-kỷ thứ 16 thì Christmas Pyramid và
Paradise Tree được kết-hợp lại thành cây Nô-En (Chistmas Tree).
Phong-tục này đã được thịnh-hành trong giáo-phái Tân-Giáo của Luther ở
Đức vào thế-kỷ thứ 18. Nhưng mãi tới một thế-kỷ sau đó, cây Nô-En mới ăn
rễ sâu vào truyền-thống của người Đức.
Cây Nô-En được du-nhập
vào đất Anh từ đầu thế-kỷ thứ 19 và rất được thịnh-hành vào giữa thế-kỷ
đó. Sở-dĩ được như vậy là nhờ công của Hoàng-Tử Albert, chồng Nữ-Hoàng
Victoria. Ở Anh, vào thời đó, người ta gọi cây Nô-En là Victorian Tree.
Cây Victorian Tree được trang-trí bằng đèn cầy, kẹo, cùng các thứ bánh
đặc-biệt treo ở cành cây bằng dây băng (ribbon) hay dây giấy đủ màu.
Phong-tục
trưng-bầy cây Nô-En vào dịp Giáng-Sinh đã được những người di-dân gốc
Đức mang vào Bắc-Mỹ từ đầu thế-kỷ thứ 17. Sau đó cây Nô-En được
thịnh-hành nhất vào thế kỷ thứ 19. Cây Nô-En còn thịnh-hành ở Austria,
Switzerland, Poland, và Holland trong giai-đoạn này. Ở Trung- Hoa,
Nhật-Bản, và Việt-Nam, phong-tục trưng-bày cây Nô-En là do các nhà
truyền-giáo Âu-Tây mang vào từ thế-kỷ thứ 19 và 20.
III. Ông Già Nô-En
Từ
thủa bắt-đầu, Ông Già Nô-En có tên là “Saint Nicholas.” Theo
truyền-thuyết thì Ông Già Nô-En Nicholas có lẽ là một vị Giám-Mục người
Hy-Lạp ở vào thế-kỷ thứ 4. Nicholas được nổi-tiếng về lòng tốt của ông.
Tuy-nhiên các nhà sử-học không thể xác-quyết sự-kiện về đời sống cũng
như sự hiện-hữu của ông. Trong tiếng Anh, Ông Già Nô-En có tên là “Santa
Claus.” Tiếng “Santa Clause” được dịch từ tiếng Đức “Sinter Klaes.”
Trong tiếng Pháp, Ông Già Nô-En có tên là “Le Père Noel.”
Truyện
thần-thoại về Ông Già Nô-En kể rằng Santa Claus tặng quà một cách
bí-mật cho những người gặp cảnh khó-khăn. Ngoài-ra, Ông Già Nô-En còn có
những tên như Nicholas of Bari và Nicholas of Myra. Theo tục-truyền,
Ông Già Nô-En được sinh-ra ở hải-cảng cổ Lycia của thành-phố Patara
thuộc Tiểu-Á Tế-Á (Asia Minor). Khi còn trẻ, Ông Già Nô-En đi du-lịch
đến Palestine và Egypt. Ông trở thành Giám-Mục của thành phố Myra,
Lycia, thuộc Tiểu-Á Tế-Á. Ông bị tù trong vụ hành-hạ những người
Thiên-Chúa-Giáo thuộc triều-đại Hoàng-Đế La-Mã Diocletian. Sau đó, ông
được thả ra vào triều-đại vua Constantine Đại-Đế (Thế-Kỷ Thứ 4) và
tham-dự Hội-Đồng Lần Thứ Nhất của Nicaea, Council of Nicaea, vào năm 325
dương-lịch. Nicaea là một thành-phố của Bithynia thuộc Asia Minor.
Hội-Đồng Council of Nicaea có mục-đích xác-nhận lòng tin vào Thiên-Chúa
và kết-tội chủ-thuyết Arianism, một chủ-thuyết chối bỏ Chúa Jesus.
Vào
thế-kỷ thứ 6, lăng-tẩm của ông Già Nô-En rất nổi-tiếng ở Myra thuộc
Tiểu-Á Tế-Á. Vào năm 1087, những người thủy-thủ và lái-buôn Ý đã
cải-táng ngôi mộ của ông và mang di-hài ông về Bari, Ý-Đại-Lợi. Sự
cải-táng này đã là một sự-kiện lịch-sử và được người ta làm lễ kỷ-niệm
hằng năm vào ngày 9 tháng 5 dương-lịch. Từ đó tiếng-tăm của ông được
truyền đi khắp nơi và Bari đã trở nên một trung-tâm hành-hương đông-đảo
nhất. Lăng-tẩm của ông được đặt tại Đại Giáo-Đường thuộc South Nicala,
Bari, Ý Đại-Lợi .
Truyền-thuyết về Ông Già Nô-En càng ngày càng
nhiều. Chuyện đầu-tiên được kể về một phép-lạ rất nổi-tiếng là khi ba vị
sĩ-quan bị kết-án tử-hình rồi lại được tha sau khi Vua Constantine
Đại-Đế nằm mơ thấy Nicholas. Kế đến là những chuyện người ta kể là Ông
Già Nô-En đã từng cứu những trẻ em khỏi bao thảm-họa. Lòng ngưỡng-mộ đối
với Ông Già Nô-En bành-trướng ra khắp thế- giới. Tên của ông được dùng
để đặt tên cho rất nhiều nơi ở các nước. Tên họ của nhiều người cũng bắt
nguồn từ tên Nicholas như: Nichols, Nicholson, Colson, và Collins.
Ông
Già Nô-En đã được chọn làm vị thánh hộ-mệnh của nước Nga, Hy-Lạp, các
hội từ- thiện, các công-đoàn, các trẻ em cùng thủy-thủ đã được cứu vớt
lên khỏi bờ biển Lycia, và các thành- phố như Fribourg, Switz, và
Moscow. Đã có hàng ngàn nhà thờ ở Châu-Âu được xây lên để thờ Ông Già
Nô-En, trong đó có một nhà thờ do Hoàng-Đế La-Mã Justinian Đệ-Nhất xây
vào thế-kỷ thứ 6 ở đô-thị cổ Constantinople, bây giờ là Istanbul,
một thành-phố lớn nhất của Turkey (Thổ-Nhĩ-Kỳ).
Các
phép-lạ của Ông Già Nô-En đã là đề-tài ưa-thích cho nhiều nghệ-sĩ thời
trung-cổ. Ngày hội truyền-thống về Ông Già Nô-En trở thành cơ-hội cho
các nghi-lễ của Boy Bishop, một phong-tục phổ-biến của người Âu trong đó
một cậu con trai được chọn làm vị Giám-Mục và ở tại chức cho tới ngày
Holy Innocents’ Day, tức ngày 28 tháng 12 dương-lịch.
Sự biến-đổi
Nicholas thành Đức Cha của Lễ Giáng-Sinh (Father Christmas) hay Đức Cha
của tháng giêng (Father January) đã xảy-ra lần đầu-tiên ở Đức, rồi đến
các quốc-gia trong đó có Reformed Churches chiếm đa-số. Tiếp đến là ở
Pháp, ngày hội Ông Già Nô-En được tổ-chức vào dịp Giáng-Sinh và Năm Mới.
Những di-dân người Hòa-Lan theo đạo Tin-Lành ở thành-phố New Amsterdam,
bây giờ là thành-phố New York City, đã gọi Nicholas là Nhà Ảo-Thuật
Nhân-Đạo và sau trở thành Ông Già Nô-En, tức Santa Claus.
Ở
Hoa-Kỳ và Anh-Quốc, Nicholas là thánh hộ-mệnh của mùa Giáng-Sinh. Theo
truyền- thống, Giáng-Sinh là ngày hội của gia-đình và của trẻ con. Người
ta trao-đổi quà tặng với nhau trong dịp này. Từ năm 1969, ngày hội Ông
Già Nô-En không còn được ghi lên lịch, nhưng việc tổ-chức kỷ- niệm Ông
Già Nô-En thì được tùy-nghi tổ-chức theo mỗi nơi.
Ngày nay tục-lệ
rước Ông Già Nô-En rất thịnh-hành. Tùy theo từng địa-phương, người ta
tổ- chức cuộc rước Ông Già Nô-En (Santa Claus Parade) theo các ngày khác
nhau ở mỗi thành-phố, thường là vào từ trung-tuần tháng 11 trở đi cho
đến giữa tháng 12 dương-lịch. Trong cuộc diễn-hành
Ông Già Nô-En
này, người ta làm những xe hoa thể-hiện đặc-tính của từng hội-đoàn hay
các cơ-sở thương-mại và cũng thể-hiện ý-nghĩa của mùa Giáng-Sinh. Ngoài
ra, người ta còn có các ban nhạc diễn-hành đi theo đám rước này để tấu
lên các bài hát Giáng-Sinh. Mặc dầu thời-tiết lạnh và tuyết phủ đầy khắp
không-gian mà mọi người vẫn tham-dự cuộc vui một cách tưng-bừng và
náo-nhiệt.
Ở mỗi nhà vào dịp Giáng-Sinh người ta còn mua những
đôi vớ hay tất (pair of socks) đỏ treo bên cạnh lò sưởi ngay chỗ ống
khói. Họ tin là vào đêm Nô-En, Ông Già Nô-En sẽ cưỡi xe trượt tuyết do
bầy hươu có cánh kéo từ trên trời xuống trần-gian để cho ông đem túi quà
vào thăm mỗi nhà qua lỗ ống khói và bí-mật bỏ quà vào mỗi chiếc vớ cho
trẻ con. Người ta tưởng-tượng ra Ông Già Nô-En với hình-dáng của một ông
già béo mập, vui-vẻ, có râu bạc trắng, mặc quần áo màu đỏ, và mang túi
quà phát cho trẻ con vào đêm trước ngày Lễ Giáng-Sinh (Christmas Eve).
Để kết thúc bài này, chúng tôi xin quý-vị hãy hòa vào niềm-vui Giáng-Sinh trong ý-nghĩa trong bài thơ của tôi sau:
Mùa Giáng-Sinh
Lạy Chúa! Mùa Giáng-Sinh, mùa sống-động,Đem vui-tươi nhộn-nhịp cho muôn loài.
Dù cỏ cây vùi dưới tuyết ban mai,
Cố vươn sức-sống để tỏ niềm ngưỡng-mộ.
Lạy Chúa! Chúng con là người khác đạo,
Cũng cảm-thông niềm vui Chúa Giáng-Sinh.
Khắp không-gian ngút-tỏa sắc hương lành,
Đem hy-vọng chuông rền-vang ấm-áp.
Bao mỹ-ý hướng ngôi cao của Chúa,
Bao thiện-tâm do ơn chúa nảy-sinh.
Gương Chúa sáng rạng-rỡ ánh bình-minh,
Nhân-loại tối-tăm, đèn trời dẫn lối.
Mùa Chúa Giáng-Sinh, đất trời mở hội,
Bao người hớn-hở, khắp chốn hoan-ca,
Ngàn trước ngàn sau đầm-ấm chan-hòa,
Mãi-mãi yêu thương sum-vầy hạnh-phúc.
KCPKT